Thời kỳ đầu trị vì Nam_Hán_Cao_Tổ

Cũng vào năm 917, Lưu Nghiễm gả cháu gái là Thanh Viễn công chúa Lưu Hoa (con gái của Lưu Ẩn) cho Vương Diên Quân- con trai của Mân vương Vương Thẩm Tri, thắt chặt quan hệ giữa hai nước.[2][5][chú 13]

Tháng 11 ÂL năm 918, sau khi Lưu Nham tế Nam Giao, ông ra lệnh đại xá, cải quốc hiệu từ Việt sang Hán, quốc gia của ông do vậy được gọi là Nam Hán.[2]

Sau khi Lưu Nham xưng đế, ông bổ nhiệm văn nhân làm quan địa phương, chứ không để võ tướng kiêm chức châu thứ sử, vì thế tình hình đất nước tương đối ổn định. Đồng thời Lưu Nham cho xây dựng thêm nhiều trường học, khôi phục chế độ thi cử, mỗi năm tuyển được mấy chục môn sinh vào triều làm quan, nhìn chung ông rất coi trọng công tác giáo dục[14].

Năm 919, Lưu Nham lập Việt quốc phu nhân Mã thị làm hoàng hậu.[2]

Năm 920, theo thỉnh cầu của Dương Động Tiềm, Lưu Nham cho lập học hiệu, khai cống cử, thiết thuyên tuyển. Ông cũng khiển sứ đến Tiền Thục, thiết lập quan hệ hữu hảo.[15]

Năm 922, Lưu Nham tin theo lời của thuật giả rằng ông cần rời khỏi kinh đô để tránh tai họa, do vậy quyết định ngao du Mai Khẩu[chú 14], gần biên giới với Mân. Tướng Mân là Vương Diên Mĩ đem binh tập kích đoàn của Lưu Nham, song trước khi quân của Vương Diên Mĩ đến nơi, Lưu Nham nhận được báo cáo của trinh sát nên bỏ trốn kịp thời.[15]

Năm 924, Lưu Nham dẫn binh xâm lược Mân, đóng quân ở Đinh châu[chú 15] và Chương châu[chú 16]. Lưu Nham chiến bại trước quân Mân, buộc phải chạy trốn.[16]

Trong khi đó, vào năm 923, Hậu Lương bị Hậu Đường chinh phục, Hậu Đường Trang Tông làm chủ Trung Nguyên.[17] Khi nhận được tin, Lưu Nham trở nên lo sợ trước thế lực hùng mạnh này, và đến năm 925 thì khiển Cung uyển sứ Hà Từ (何詞) đến triều cống cho Hậu Lương[16] (xưng là "Đại Hán quốc vương" đưa thư thượng "Đại Đường hoàng đế")[5] và dò xét sức mạnh của triều đại này. Sau khi Hà Từ trở về, thông báo lại rằng Hậu Đường Trang Tông kiêu dâm vô chính, không đáng phải sợ; Lưu Nham rất phấn khởi, và từ đó không còn qua lại với triều đình Trung Nguyên.[16]

Cũng vào năm 925, theo ghi chép thì người ta thấy có rồng trắng xuất hiện trong cung điện Nam Hán, do vậy Lưu Nham cải nguyên "Bạch Long", đổi tên thành Cung (龔).[18] Tuy nhiên, trong năm đó có một tăng người Hồ nói với ông rằng Sấm thư "diệt Lưu thị giả vung dã" (theo sấm thư thì diệt họ Lưu là Cung), sau đó ông tham khảo trong Chu Dịch, tạo ra chữ "龑" với nghĩa "phi long tại thiên" (rồng bay lên trời), âm là "Nghiễm".[19] (Tư trị thông giám thì chép lần đổi tên thứ hai này diễn ra vào năm 941.[20]) Cũng vào năm 925, khi Phiếu tín Trường Hòa (Nam Chiếu) là Trịnh Mân khiển bố tiếp (em) là Trịnh Chiêu Thuần (鄭昭淳) đến Nam Hán cầu hôn, Lưu Nham gả một người cháu gái khác là Tăng Thành công chúa làm thê của Trịnh Mân.[6][18][19]

Liên quan